Dân tộc duy nhất ở Trung Quốc nói tiếng Việt

Dân tộc duy nhất ở Trung Quốc nói tiếng Việt

Người Kinh Tam Đảo, cộng đồng người Kinh chủ yếu và có lẽ còn mang nhiều bản sắc văn hóa Việt Nam nhất tại Trung Quốc. Hơn 500 năm định cư trên đất Trung Quốc, với vẻn vẹn hơn 2 vạn người, Kinh tộc không những đã lớn mạnh trở thành cộng đồng dân tộc thiểu số có nền kinh tế phát triển nhất, mà còn là một trong những dân tộc vẫn giữ nguyên vẹn những nét đặc sắc nhất của văn Hóa cộng đồng người Việt.

Cách cửa khẩu Móng Cái 30 km về hướng Bắc, thành phố Đông Hưng (Trung Quốc) hiện ra với những dãy nhà cao tầng, trung tâm thương mại sầm uất. Ở đây, vùng làng chài Tam Đảo là nơi sinh sống duy nhất của bộ tộc Kinh. Và hằng ngày họ vẫn dùng tiếng Việt giao tiếp, con em được giáo dục thông qua những cuốn sách giáo khoa bằng ngôn ngữ mẹ đẻ.

Vào thời Lê sơ (1511) theo những phả hệ được viết bằng chữ Nôm vẫn được lưu giữ trong đình làng, tổ tiên của cụ Lưu Thượng Tân đã từ vùng Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam) đến định cư tại vùng đất tam đảo này. 100 người đầu tiên, thuộc 12 dòng họ, đã đến định cư tại đây, để rồi sau này trở thành 3 làng lớn: Vạn Vỹ, Vũ Đầu và Sơn Tâm.

Cuộc di cư xa xưa đó, cùng với huyền sử, Bạch Long Trấn Hải Đại Vương chính là người có công giúp Kinh tộc giết chết con rết thần vẫn thường nổi sóng gió bắt ngư dân trên biển. Sau khi chết, con rết thần hoá thành 3 hòn đảo, nay là 3 thôn Vũ Đầu, Sơn Tâm và Vạn Vỹ… đã tạo nên một dân tộc thiểu số mới, đầy đặn các nét văn hoá đặc trưng riêng biệt, trên đất Trung Hoa. Và cái tên Kinh tộc Tam Đảo cũng có tên từ điển cố đó.

Sau này, nhờ sự bù đắp phù sa nên 3 hòn đảo đã hợp thành đất liền và phát triển thêm một số thôn xóm khác. Thế nhưng, cái tên Tam Đảo vẫn còn giữ nguyên vẹn. Đồng thời, bộ tộc có nguồn gốc Việt Nam được ghi nhận là tộc Kinh cùng 56 dân tộc khác của Trung Hoa.

Trải qua 500 năm, Tam Đảo hiện nay ước tính có gần 20.000 người gốc Việt thuộc thế hệ thứ 9-10. Mặc dù đã không còn mối liên hệ với gốc gác tại Việt Nam, thế nhưng họ vẫn luôn giữ gìn bản sắc, ngôn ngữ mẹ đẻ thông qua việc sử dụng hằng ngày.

Dường như bỏ mặc thời gian, làng chài Vạn Vĩ hiện ra đầy đủ những nét bản địa với cây đa, bến nước, mái đình. Đặc biệt, ngay trước cổng làng, chính quyền địa phương đã cho xây dựng một bảo tàng, lưu giữ tất cả văn hóa của người Việt Nam để nhắc nhở cội nguồn cho con cháu bộ tộc Kinh.

Nhiều năm nay, hội làng của người Kinh trên đất Tam Đảo cũng trở thành một địa chỉ văn hoá cho khách du lịch. Đặc biệt, kể từ thời điểm “đại sứ” của văn hoá người Kinh là cây đàn bầu bắt đầu vượt khỏi ranh giới địa lý vùng.

Đầu những năm 1950, nghệ nhân người Kinh Tô Thiện Huy đã đưa đàn bầu lên sân khấu biểu diễn. Những bản phổ ký âm đầu tiên bằng nhạc số cho đàn bầu cũng ra đời. Kể từ thời điểm đó, cây đàn bầu có nguồn cội Việt ngày càng được nâng cao về kỹ thuật cũng như phong cách biểu diễn.

Đàn bầu của người Kinh được chế tác bằng gỗ lim, được gắn các thiết bị âm thanh bằng điện. Thậm chí, cây đàn bầu khổng lồ đang được trưng bày trong đình làng Vạn Vỹ còn được đưa đi lưu diễn khắp đất Trung Quốc. Cô gái gốc Việt xuất thân từ làng Vạn Vỹ có tên Tô Hải Trân, đã được vinh danh gắn liền với cây đàn bầu, khi biên tập và phát hành tập nhạc chuyên về đàn bầu hàng đầu Trung Quốc mang tên “Hải vận ma ảnh”, gồm 11 bài.

Không chỉ nổi tiếng về cây đàn bầu, hội làng Việt tại Kinh đảo còn thu hút khách du lịch bởi bề dày văn hoá đặc trưng khác biệt. Tà áo dài và chiếc nón lá mà các cô gái gốc Việt mang trong lễ hội là hình ảnh cực kỳ ấn tượng.

Cái nếp sinh hoạt tôn vinh sự đoàn kết, sự gắn kết các giá trị cộng đồng của cả 3 làng có lẽ đã tạo được một cộng đồng người Kinh mạnh mẽ trong rất nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số tại Trung Quốc. Cứ hễ làng nào có việc, là người làng khác sang “chi viện”. Hình ảnh hàng chục cô gái duyên dáng vận áo dài, nón lá đi trong lễ hội, đều là những cô gái đẹp nhất của cả 3 làng người Việt.

Ấn tượng nhất, cảm động nhất, có lẽ là cảm giác sải từng bước dưới bóng rợp của cây đa cổ thụ 200 năm tuổi trước đình làng Vạn Vỹ. Trước mặt cây đa là một tấm biển đá, khắc 5 chữ lớn “Cây tương tư Nam Quốc”. Phía dưới 5 chữ lớn, là bài thơ, với nội dung như lời tổ huấn răn dạy các thế hệ sau không được quên nguồi cội dân tộc.

Đình làng Việt tại 3 thôn Vũ Đầu, Sơn Tâm, Vạn Vỹ vẫn giữ được những nét đặc trưng của đình làng Việt: trong những ngày bình thường, đây là nơi sinh hoạt cộng đồng của trẻ em và người già của cả thôn.

Có lẽ, những tập tục làng xã nghiêm cẩn, được những người lớn tuổi nghiêm khắc thực thi, đã giúp cho 3 làng, qua đằng đẵng hơn 5 thế kỷ, vẫn giữ được những nét truyền thống Việt, mà e rằng, nhiều làng trên đất Việt hiện nay liệu có còn.

Hạ Băng